Đánh giá. Nhà nước chủ nô hay còn gọi là nhà nước chủ nô, là nhà nước tiên phong trong lịch sử dân tộc và là tổ chức chính trị đặc biệt quan trọng của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là một hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp dựa trên nền tảng chính trị
- Nội dung của quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là thu thập, kiểm tra và đánh giá các thông tin, tư liệu liên quan và có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án hình sự (chứng cứ). Cả ba hoạt động này là thống nhất, liên quan chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau bảo đảm cho quá trình nhận thức về vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách quan;
Nhận dạng là gì? Quy định về nhận dạng trong tố tụng hình sự. Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục thực hiện biện pháp điều tra nhận dạng: trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử
Nhiễm Sắc Thể Là Gì. Mục đích của tố tụng dân sự là bảo vệ quyển cùng công dụng đúng theo pháp của cá thể, cơ quan, tổ chức và ích lợi của Nhà nước. Tố tụng dân sự bao gồm: khởi kiện vụ dân sự, những hiểu biết xử lý việc dân sự, thú lí vụ vấn đề dân
Quyền sở hữu trí tuệ là gì? - Tham gia tranh tụng hơn 100 vụ việc tại TAND các cấp ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Tây Ninh, Tiền Giang, Khánh Hòa … về Dân sự, hình sự - Tư vấn pháp luật thường xuyên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại HCM và HN từ 2017 đến nay.
Vốn tự có là nguồn vốn của doanh nghiệp, góp phần giúp doanh nghiệp đánh giá tình hình của công ty và đưa ra những bước đi, chiến lược phát triển phù hợp. Trong thời gian đầu hoạt động, vốn tự có là cơ sở để tạo nên nguồn lực tài chính của doanh nghiệp. Vốn
EVcFhN. Thần Chú Đại Bi là một hình thức bằng lời nói của Đà La Ni Dharani, một kinh điển sử dụng các âm tiết để truyền tải một thông điệp siêu việt mạnh mẽ và hiệu quả, tạo ra một trạng thái ý thức đặc biệt và được cho là có khả năng giải phóng tất cả các chúng sinh đau khổ dưới địa ngục và trần người thân trong gia đình tôi rất tin vào sự mầu nhiệm của Phật, Bồ tát nói chung và Chú Đại Bi nói riêng. Khoảng thời gian trước, khi nghe người thân mình tụng những âm thanh kỳ lạ này, tôi thắc mắc và hỏi họ về ý nghĩa của thần tất cả câu trả lời đều không biết hoặc không thể biết vì họ nói rằng, đây là âm tiết Thánh, thần chú của Bồ tát Quan Thế Âm, không cần hiểu ý nghĩa của nó nhưng trì tụng với tâm chân thành thì sẽ được Bồ tát gia hộ tai qua nạn khỏi. Và tôi tin điều đó!Tôi rất thích nghe nhạc Chú Đại Bi và cũng thường xuyên tụng niệm thần chú, nhưng sự tò mò bên trong đã thôi thúc tôi tìm hiểu rõ hơn về nó. Vì vậy, tôi đã lên mạng tìm kiếm những bài viết nói về công năng và ý nghĩa của Chú Đại Bi – mục đích chính của việc trì tụng thần chú này để gửi đến quý độc giả Đại Bi là gì?Nguồn gốc của Chú Đại BiCông năng của Chú Đại BiNgười nào thường niệm Chú Đại Bi thì sẽ không bao giờ bị 15 hình thức chết sau đâyNgười nào đang giữ và niệm Chú Đại Bi sẽ nhận được 15 điều tốt lành sau đâyNội dung Chú Đại Bi phiên âm tiếng ViệtÝ nghĩa vi diệu của Chú Đại BiNghi thức trì tụng Chú Đại BiMột số video trì tụng Chú Đại Bi rất hay và truyền cảmChú Đại Bi được biết đến với cái tên Đại Bi Tâm Đà La Ni Great Compassion Mantra hay Da Bei Zhou là một thần chú Phật giáo dài 84 dòng của Phật giáo Đại Thừa, lần đầu tiên được dịch từ tiếng Phạn Sanskrit sang tiếng Trung Quốc vào thế kỷ thứ Chú Đại Bi là một hình thức bằng lời nói của Đà La Ni Dharani, một kinh điển sử dụng các âm tiết để truyền tải một thông điệp siêu việt mạnh mẽ và hiệu quả, tạo ra một trạng thái ý thức đặc biệt và được cho là có khả năng giải phóng tất cả các chúng sinh đau khổ dưới địa ngục và trần Đại Bi còn có những tên gọi khác là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Thanh Cảnh Đà La có lẽ là câu thần chú phổ biến thứ 2 sau Om Mani Padme Hum. 84 là một con số đẹp trong đạo Phật, mặc dù là một thần chú tương đối dài nhưng nó được tụng niệm bởi nhiều Phật tử nhiệt thành của Đức Phật để thể hiện lòng bi mẫn với tất cả chúng khắp thế giới, hàng triệu Phật tử tại gia tụng niệm Chú Đại Bi của Bồ Tát Quan Âm để thụ hưởng những lợi ích to lớn từ việc chữa lành, bảo vệ và thanh lọc của thần sao Chú Đại Bi lại phổ biến? Bởi vì nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, nó thể hiện lòng từ bi vô lượng của chư Phật và Bồ tát dành cho tất cả chúng sinh. Đây là cốt lõi của sứ mệnh từ bi của Bồ lợi ích trước mắt, như được giảng dạy trong kinh điển là tịnh hóa nghiệp xấu, thanh lọc, chữa lành và bảo vệ. Với lòng từ bi vĩ đại, Chú Đại Bi có thể làm giảm những đau khổ và khó khăn của mọi giống loài trên hành tinh với những Phật tử theo tư tưởng Phật giáo Đại Thừa thì ai cũng biết Chú Đại Bi, những lợi ích mà thần chú mang lại là không thể kể hết. Vì vậy, Phật tử niệm thần chú này rất nhiều, họ thường xuyên đi chùa lễ Phật, ăn chay, phóng sanh và làm từ thể, Chú Đại Bi đã ảnh hưởng tích cực đến một phần nào đó trong tâm trí họ, phát triển lòng từ bi và tình yêu thương trong một cơ thể phải thường xuyên đối mặt với những nghịch cảnh của cuộc chú thường được hát hay tụng niệm bằng tiếng Phạn, chứ không phải bản dịch tiếng Anh, Thái, Việt hoặc Trung Quốc. Những bản dịch thường đòi hỏi người dịch phải nghiên cứu sâu về “ý nghĩa từ”, nhưng cũng giống như mọi câu thần chú khác, ý nghĩa của từ không quan Phạn Sankrit là một ngôn ngữ của những “âm tiết Thánh”, không chỉ những từ được hình thành mà còn những âm thanh thiêng liêng có các lớp ý nghĩa vô hình của nó. Vì lý do này, Chú Đại Bi Great Dharani thường được tụng bằng tiếng gốc của Chú Đại BiNguồn gốc Chú Đại Bi bắt nguồn từ câu chuyện giữa Quán Thế Âm Bồ Tát Avalokitesvara và chư Phật Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng“Bạch đức Thế Tôn, con có Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh tật, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.” Rồi sau đó đọc Chú Đại Tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Từ đó Chú Đại Bi ra đời và tất cả chúng sinh đều được quả Tát đã đem lại sự cứu rỗi cho tất cả mọi người, ngay cả những người đã từng phạm phải những tội lỗi không thể tha thứ. Quan Thế Âm Bồ Tát là một trong những vị Bồ tát quan trọng nhất trong Phật giáo Đại Thừa, người tượng trưng cho lòng trắc ẩn của tất cả chư năng của Chú Đại BiCông dụng của Chú Đại Bi là bảo vệ, thanh lọc và phát triển lòng từ mầu nhiệm và linh nghiệm của Chú Đại Bi là không thể bàn cãi. Nó có tác dụng bảo vệ, thanh lọc và cũng có thể chữa lành tất cả loại bệnh, nhất là những phiền não về Wikipedia, Đại Bi chú là chân ngôn phổ biến cùng với phật Quán Thế Âm ở Đông Á, bài chú này thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh, quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!Cho dù bạn có theo đạo Phật hay không, bạn có tin vào sự linh nghiệm của thần chú hay không thì khi bạn khởi niệm Chú Đại Bi, bạn sẽ nhận được những lợi ích kỳ diệu không thể giải thích của thần chú Tát Quan Thế Âm nói về công đức trì tụng Chú Đại BiBhagavan, bất kỳ một sinh vật sống nào niệm và giữ thần Chú Đại Bi nếu rơi vào ba con đường tà ác, tôi nguyện không đạt được giác bất kỳ người sống nào đang niệm và giữ thần Chú Đại Bi không được tái sinh trong bất kỳ cõi Phật nào, tôi nguyện không đạt được giác bất kỳ ai khi niệm và giữ thần Chú Đại Bi không có được hạnh phúc và sự hùng biện không giới hạn, tôi nguyện không đạt được giác bất kỳ người nào đang niệm và giữ thần Chú Đại Bi, nếu không có được bất cứ điều gì trong cuộc sống hiện tại của mình, thì nó không thể gọi là Đà La Ni của Trái Tim Từ Bi, trừ khi nó được sử dụng bởi những người không có đạo đức hay không hoàn toàn chân nào thường niệm Chú Đại Bi thì sẽ không bao giờ bị 15 hình thức chết sau đâyHọ sẽ không chết đói hoặc thiếu sẽ không chết vì bị áp bức, bỏ tù, bị đánh sẽ không chết dưới kẻ thù thù sẽ không bị giết trong trận chiến quân sẽ không bị giết bởi hổ, sói, hoặc những con thú sẽ không chết vì nọc độc rắn độc hoặc bọ sẽ không bị chết đuối hoặc bị thiêu sẽ không bị đầu độc cho đến sẽ không chết vì phép sẽ không chết vì điên sẽ không bị giết bởi những vụ lở đất hoặc những cây cối sẽ không chết vì những cơn ác mộng do những người xấu gây sẽ không bị giết bởi ma quỷ hay ác sẽ không chết vì những bệnh hiểm sẽ không tự nào đang giữ và niệm Chú Đại Bi sẽ nhận được 15 điều tốt lành sau đâyNơi sinh của họ sẽ luôn luôn có một vị vua sẽ luôn được sinh ra ở một đất nước sẽ luôn được sinh ra vào thời điểm sẽ luôn gặp những người bạn cơ quan của cơ thể sẽ luôn luôn khoẻ tim của họ sẽ tinh khiết và đầy sẽ không vi phạm những điều cấm đình của họ sẽ tử tế và hài sẽ luôn có sự giàu có và hạnh sẽ luôn nhận được sự tôn trọng và giúp đỡ của người giàu có của họ sẽ không bị cướp sẽ có được mọi thứ họ tìm con rồng, thần linh và tinh thần tốt sẽ luôn luôn bảo vệ nơi sinh ra, họ sẽ thấy Đức Phật và nghe sẽ thức tỉnh với ý nghĩa sâu sắc của Phật Pháp thích hợp mà họ nghe bạn tụng niệm Chú Đại Bi 108 lần mỗi ngày trong 1000 ngày, mười phương chư Phật sẽ rất vui mừng, gia đình bình an, hạnh phúc và tất cả các bệnh sẽ được chữa cả ma quỷ ở địa ngục phải cúi xuống đối với bạn, các vị Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ bảo vệ bạn. Họ sẽ thông báo cho tất cả các hồn ma khác không để cho bạn gặp rắc rối. Vì vậy, sức mạnh của thần chú này là không thể tưởng chú giúp chúng ta nuôi dưỡng Bồ đề tâm, phát tâm từ bi để giúp đỡ mọi người, hãy cho đi để được nhận lại, hãy là những cánh tay nối dài của Bồ tát trong việc phổ độ chúng sinh. Với một trái tim chân thành kèm theo những hành động tích cực, chắc chắn bạn sẽ nhận được lợi ích tốt lành từ thần chú nếu làm theo các hướng là trích dẫn từ lời của Hòa Thượng Tuyên Hóa“Nếu con người hay các vị thần đọc và giữ Chú Đại Bi, thì khi họ tiến đến sự kết thúc của cuộc đời, tất cả chư Phật mười phương sẽ đến để đón họ, và giúp họ tái sinh trong bất cứ cõi Phật nào họ muốn, theo nguyện vọng của họ…Những người và những vị thần niệm và trì tụng thần chú này sẽ có 15 loại sinh tốt và sẽ không bị 15 cái chết xấu…Tất cả các vị thần và con người phải thường xuyên niệm và giữ nó, mà không cần suy nghĩ”.Nội dung Chú Đại Bi phiên âm tiếng ViệtChú Đại Bi Tiếng Trung Quốc, Ảnh là văn bản Chú Đại Bi tiếng Việt được nhiều người đọc tụng nhất trong cộng đồng Phật giáo Việt mô đại bi Hội Thượng Phật Bồ tát 3 lần.Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. o Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà nghĩa vi diệu của Chú Đại BiMột số người cho rằng trì tụng Chú Đại Bi thì không cần hiểu ý nghĩa của nó. Bởi ví nó là những âm tiết Thánh, chỉ có các vị Phật hoặc bậc giác ngộ mới lý giải có người nói rằng trì chú, tụng kinh hay niệm Phật cũng giống như thiền. Đó là chú tâm vào đối tượng mà không đưa tư chủ quan vào để lý giải hay phán xét. Để thần chú tự biểu lộ ý nghĩa của chính là lý do mà nhiều người trong lúc trì tụng Chú Đai Bi không nên tìm hiểu ý nghĩa; nhưng khi nhập thế, khi mở mắt ra thì phải thông đạt mọi chuyện, đem sự thông đạt đó vô chuyện tu hành của mình và chia sẻ ý nghĩa đó với người khác để họ hiểu. Sau đây, Hoa Sen Phật xin giải nghĩa từng câu trong Chú Đại Bi để mọi người hiểu hơn về bài chú nàyNam Mô Hắt Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da Bổn thân Quan-Âm Bồ-Tát hóa hiện tướng hành giả cầm chuỗi lễ tụng cầu Bồ-Tát cảm Mô A Rị Da Quan-Âm hóa hiện tướng tay bưng Như-Ý Pháp-Luân. Hành giả y giáo phụng Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da Quán-Âm hóa hiện tướng Quán-Tự-Tại trì bát. Hành giả quán tưởng khiến chúng sanh được trường Đề Tát Đỏa Bà Da Quan Âm hiện thân Bất Không Quyên Sách Bồ Tát tự giác giác tha, phổ độ chúng Ha Tát Đỏa Bà Da Quan Âm hiện tướng tụng chú, theo pháp tu trì, được thiện giải Ha Ca Lô Ni Ca Da Quan Âm hóa hiện tướng Mã-Minh Bồ Tát tự giác giác tha, tự đô tự Quan Âm hóa hiện tướng các Thần Quỷ Vương chắp tay tụng chú. Chư Phật quán tưởng chữ Án thành chánh Bàn Ra Phạt Duệ Quan Âm hóa hiện tướng Tứ Đại Thiên Vương dùng lục độ hoá độ chúng Đát Na Đát Tỏa Quan Âm hóa hiện tướng Bộ-Lạc Tứ Đại Thiên Vương khiến cải ác theo Mô Tất Cát Lật Đỏa Y Mông A Rị Da Quan Âm hiện tướng Long Thọ Bồ Tát hộ trì người tu hành, hàng phục tất cả ma Lô Kiết Đế Quan Âm hiện tướng Phật Viên Mãn báo Thân Lô Xá Na rộng độ vô lượng chúng Mô Na Ra Cẩn Trì Quan Âm hiện tướng Phật Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na gia hộ chúng sanh an Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế Quán Âm hiện tướng Dương Đầu Thần Vương hộ trì hành giả xa lìa loài ác Bà A Tha Đậu Du Bằng Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Cam Lộ Vương tay cầm cành dương, tay cầm bình ngọc cam lộ độ chúng Thệ Dựng Quán Âm hiện tướng Phi Đằng Dạ Xoa Thiên Vương tuần sát bốn phương khuyến thiện ngừng Bà Tát Đa Na Ma Bà Tát Đa Na Ma Bà Già Quán Âm hiện tướng Thần Vương Bà Già Bà Đế độ chúng sanh có Phạt Đạt Đậu Quan Âm hiện tướng Quân Tra Lợi Bồ Tát mặt có ba con mắt cảm hóa ác nhơn hướng Điệt Tha Quán Âm hiện tướng A La Hán thuyết pháp độ chúng A Bà Lô Hê Quan Âm hiện tướng Quan Âm Bồ Tát từ bi vô lượng cứu khổ ban Ca Đế Quan Âm hiện tướng Đại Phạm Thiên Vương ở trong mười phương thế giới độ thoát chúng Ra Đế Quan Âm hiện tướng Đế Thần ở trong mười phương thế giới thường cứu chúng Hê Rị Quan Âm hóa hiện tướng Thiên Thần Ma Hê Đầu La thống lãnh thiên binh độ chúng Ha Bồ Đề Tát Đỏa Quan Âm dùng tâm nguyện thanh tịnh, từ bi vô ngã cảm ứng độ người chân thật tu Bà Tát Bà Quan Âm hiện thân Bồ Tát Hương Tích điều phục năm phương chúng quỷ theo hầu cứu giúp chúng Ra Ma Ra Quan Âm hiện Bạch Y Bồ Tát tay mặt cầm Như Ý, tay trái dắt đồng tử khiến chúng sanh được trường Hê Ma Hê Rị Đà Dựng Quan Âm hiện tướng Phật A Di Đà khiến chúng sanh khi hết thân nầy đồng sanh Cực Lạc Lô Cu Lô Yết Mông Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Không Thân hàng phục vạn ức thiên binh, hóa độ vô lượng chúng Lô Độ Lô Phạt Xà Da Đế Quan Âm hóa thân Bồ Tát Nghiêm Tuấn áp lãnh man binh Khổng Tước Vương hàng phục các ma Ha Phạt Xà Da Đế Quan Âm hóa hiện Đại Lực Thiên Tướng tay cầm Bảo Xử hộ trì chúng sanh, tinh tấn tu La Đà La Quan Âm hiện tướng trượng phu tu khổ hạnh khiến chúng sanh phá trừ ngã chấp pháp Rị Ni Quan Âm hiện tướng Sư Tử Vương xét nghiệm người tụng chú khiến chúng sanh tiêu trừ tai Phật Ra Da Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Thích Lịch tay cầm Kim Xử hàng phục các ma và quyến thuộc của Ra Giá Ra Quan Âm hiện thân Bồ tát Tồi Toái tay cầm Kim Luân hóa độ oán ma điều phục Mạ Phạt Ma Ra Quan Âm hiện thân Đại Hàng Ma Kim Cang tay cầm Kim Luân hộ trì chúng sanh đắt đại cát Đế Lệ Quán Âm hiện tướng chư Phật, Bồ Tát chắp tay lắng lòng nghe tụng thần chú, hành giả phụng trì chứng đắt Phật Hê Y Hê Quan Âm hiện thân Ma Hê Thủ La Thiên Vương cảm triệu nhơn thiên thuận Na Thất Na Quán Âm hiện thân Ca Na Ma Tướng Thiên Vương, hóa lợi chư Thiên, không gây tai hại nhân Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi Quan Âm hiện tướng tay cầm khiên, tay cầm cung tên kính tụng thần chú đắc pháp tự Xa Phạt Xâm Quan Âm hiện thân Kim Khôi Đại Tướng cầm linh thuận thời giáo hóa độ chúng Ra Xá Da Quan Âm hiện tướng Phật A Di Đà, chúng sanh tưởng niệm thì hiện tiền tương lai sẽ thấy Lô Hô Lô Ma Ra Quán Âm Hiện Tướng Bát Bộ Thần Vương chắp tay niệm từ bi hàng phục chúng Lô Hô Lô Hê Rị Quan Âm hiện tướng Tứ Tý Tôn Thiên tay bưng Nhật Nguyệt chiếu sáng hóa độ nhơn Ra Ta Ra Quan Âm hóa độ Phổ Đà Sơn hiển linh bất khả tư nghì, có ý nghĩa Ta-Bà khổ như núi non hiểm Rị Tất Rị Quán Âm hiện tướng mạo từ bi tay cầm cành dương, tay cầm tịnh bình rưới nước cam lồ cứu khổ độ Rô Tô Rô Quán Âm hóa tướng lá cây rụng, chúng sanh nghe tiếng được bốn lợi ích quán đảnh, mát thân, tâm vui, đầy Đề Dạ Bồ Đề Dạ Quan Âm hiện tướng diện mạo từ bi thân cận trẻ con giáo hóa lợi ích chúng Đà Dạ Bồ Đà Dạ Quan Âm hiện tướng A Nan tôn giả tay cầm bình bát hóa độ chúng Đế Rị Dạ Quan Âm hiện tướng Di Lặc Bồ Tát chỉ dạy chúng sanh tu hạnh đại bi, được chơn giác ngộ an Ra Cẩn Trì Quan Âm hiện tướng Địa Tạng Bồ Tát khai ngộ chúng sanh tỉnh giác mê chấp, được thoát khổ ác Rị Sắc Ni Na Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Bảo Tràng tay kiết ấn, tay cầm Kim Xoa làm lợi ích chúng Dạ Ma Na Quan Âm hiện tướng Bảo Kim Quang Tràng Bồ Tát cầm Bạt Chiết La Xử lợi ích độ Bà Ha Quan Âm hiện tướng ba đầu Viên-Tịch Thắng-Nghĩa lợi ích độ Đà Dạ Quan Âm hiện tướng tôn giả Xá Lợi Phất tay kiết ấn Liêm Thủ thông đạt tất cả Bà Ha Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Hằng Hà Sa đứng trên đầu rồng, dùng tâm cát tường hóa độ chúng Ha Tất Đà Dạ Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Phóng-Quang tay cầm tràng phan báu lợi ích độ Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả Mục Kiền Liên tay cầm tích trượng, bình bát dứt trừ tai ương, cứu độ chúng Đà Du Nghệ Quan Âm hiện Tây Phương Cực Lạc, tất cả chư Thiên, Bồ Tát vân tập thính thọ pháp hỷ, hóa độ thập phương nhơn Bàn Ra Dạ Quan Âm hiện tướng Thiên Nữ Tự Tại Viên MãnTa Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả A-Xà-Na hoan hỷ bưng cao bình bát tăng trưởng tâm lợi ích độ Ra Cẩn Trì Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Sơn Hải Huệ tay cầm kiếm vàng hóa độ thánh-giả Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả Chiên Đà La quảy nón lá vô trụ thắng nghĩa độ hóa chúng Ra Na Ra Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Bảo Ấn Vương tay cầm búa vàng Như Ý kiểm nghiệm tâm hạnh chúng Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả Câu Hy La mang giầy cỏ đạp trên sóng nước phát sanh tiếng hải triều cảnh giác tâm chúng Ra Tăng A Mục Khê Da Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Dược Vương tay cầm dược thảo trừ bịnh khổ chúng Bà Ha Quan Âm hiện tướng Viên Mãn Bồ Tát thân mặc y đỏ chấp tay tâm viên mãn an lạc chúng Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ Quan Âm hiện tướng Dược Thượng Bồ Tát tay cầm bình ngọc giải trừ tật khổ chúng Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả Xá Lợi Phất tay cầm chơn kinh cứu cánh thắng nghĩa hóa đạo chúng sanh quy Tịnh Kiết Ra A Tất Đà Dạ Quan Âm hiện tướng Thần Hổ gầm, tay cầm búa kiên định tâm hàng phục ma Bà Ha Quan Âm hiện tướng chư Thiên Ma Vương tay cầm Xà Thương hóa đạo chúng sanh giải trừ tâm oán Đà Ma Yết Tất Đà Dạ Quan Âm hiện tướng Linh Hương Thiên Bồ Tát bưng lư Như Ý hộ trì chúng Bà Ha Quan Âm hiện tướng Tán Hoa Thiên Bồ Tát tay cầm bảo liên ngàn cánh thành tựu chúng sanh lợi ích an Ra Cẩn Trì Bàn Già Ra Dạ Quan Âm hiện tướng Tôn Giả Phú Lâu Na tay bưng bình bát cứu độ chúng sanh lìa tai Bà Ha Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Đà La Ni Từ tay bưng trái tươi bố thí độ sanh chân thật tu hành rõ pháp tánh Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Tam Ma Thiền Na kiết già trên bánh xe, tay bưng đèn ngọc sáng khắp pháp Bà Ha Quan Âm hiện tướng tôn giả Đại Ca Diếp tay trái cầm chuỗi, tay mặt cầm thiền trượng chỉ dẫn chúng sanh tu Mô Hắc Ra Đa Ra Dạ Da Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Hư Không Tạng cầm hoa ngồi trên đá khiến cho chúng sanh kiên định tín tâm dõng mãnh tinh Mô A Rị Da Quan Âm hiện tướng Bồ Tát Phổ Hiền kiết già thiền tọa trên Hương Tượng khiến chúng sanh viên mãn công Lô Kiết Đế Quan Âm hóa thân Bồ Tát Văn Thù ngồi trên sư tử tay chỉ hư không khến chúng sanh khai Bàn Ra Dạ Quan Âm hiện tướng hoa sen ngàn cánh giải trừ chúng sanh ái sắc trần hư vọng, thấy tự tánh Bà Ha Quan Âm hiện tướng buông thõng hai tay giải trừ nhĩ căn phân biệt thanh trần hư vọng, nghe tự tánh Tất Điện Đô Quan Âm hiện tướng mở hai bàn tay đoạn tỳ căn ái nhiễm hương trần, tự giác tánh Đà Ra Quan Âm hiện tay Đâu La Miên đoạn trừ căn ái nhiễm vị trần hư vọng, tự giác tánh Đà Dạ Quan Âm hiện tướng tay bưng bát hương giải trừ tham ái chạm xúc, khiến chúng sanh đoạn thân căn xúc trần hư vọng, tự giác tánh Bà Ha Quan Âm hiện tướng tay cầm tràng phan giải trừ phân biệt các pháp, khiến chúng sanh đoạn ý căn chấp pháp trần hư vọng, biết tự tánh thức trì tụng Chú Đại BiNên đặt ảnh Bồ tát Quan Thế Âm trước mặt khi tụng chú đại bi để được gia người đã gửi email cho tôi và hỏi về nghi thức tụng Chú Đại Bi đúng chánh pháp, những việc nên làm trước và sau khi trì tụng thần chú này. Do đó, tôi đã tìm hiểu trên các trang Phật học và tổng hợp được nghi thức tụng Chú Đại Bi sau bất kỳ nghi thức nào của Phật giáo, bạn nên tắm rửa sạch sẽ trước khi thực hiện. Sau đó, mặc bộ áo lam gọn gàng và ngồi trước bàn thờ Phật, hoặc một hình Phật – Bồ tát cũng nhớ là chọn khung thời gian yên tĩnh để tránh phân tâm trong lúc tụng Chú Đại Bi. Giọng đọc tụng rõ ràng, vừa phải để tránh làm ảnh hướng đến những hàng xóm xung quanh. Chọn một tư thế ngồi mà bạn thấy thoải mái nhất và bắt lễ Tam Bảo và Bồ tát Quan Thế ÂmCon xin cung kính đảnh lễ Chư Phật mười phương 1 lạy.Con xin cung kính đảnh lễ Pháp mười phương 1 lạy.Con xin cung kính đảnh lễ các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác cùng Tăng sư và các vị theo học đạo Phật 1 lạy.Con xin cung kính đảnh lễ tất thảy các vị chúng sanh khác 1 lạy mong các vị cùng tôi tu tập đoạn trừ hết phiền não, khổ đau mà sớm an lạc tự đó phát nguyệnNam mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau biết tất cả mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được mắt trí mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau độ các chúng mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được phương tiện mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau lên thuyền bát mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm được qua biển mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau được đạo giới mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm lên non Niết mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con mau về nhà vô mô đại bi Quán Thế Âm, nguyện con sớm đồng thân pháp con hướng về nơi non đao, non đao tức thời liền sụp con hướng về lửa, nước sôi, nước sôi, lửa cháy tự khô con hướng về cõi địa ngục, địa ngục liền mau tự tiêu con hướng về loài ngạ quỷ, Ngạ quỷ liền được tự no con hướng về chúng Tu La, Tu la tâm ác tự điều con hướng về các súc sanh, súc sanh tự được trí huệ theo là xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà – Nam Mô A Di Đà Phật 21 lần.Lưu ý Khi tụng Chú Đại Bi, bạn nên hướng tâm đến giọng đọc của mình để tâm tĩnh lặng. Sau khi tụng xong, bạn hãy hướng tâm đến những suy nghĩ tích cực như sauCó thể là những phiền não nơi tâm mà hình dung đang được chữa thể là khổ nơi những người thân mà hình dung ra đang đọc tụng ngay thể là khởi lòng thương sót những người đang chịu nhiều khổ đau, không có cơm no áo ấm như thể là khởi lòng thương sót những con vật sắp bị đưa đi giết thịt mà hình dung bên cạnh chúng đọc tụng cho chúng thể là khởi lòng thương sót chúng sanh đang đọa đày ở các cõi Địa ngục, Ngã quỷ…mà hình dung với thân trang nghiêm cao lớn với ánh sáng từ bi soi tới thân họ mà đọc tụng Chú Đại Bi để độ thoát thể thấy cha mẹ, ông bà người thân già yếu mà tụng Chú Đại Bi sống khỏe mạnh, đi nhẹ thể thấy những người thân hay làm những việc bất thiện mà tụng Chú Đại Bi để họ có thể tỉnh ngộ có cơ duyên được học đạo nhớ, Chú Đại Bi là thần chú biểu hiện cho lòng từ bi vĩ đại của Bồ tát, vì thế nó có khả năng khơi dậy tình yêu thương, lòng từ bi trong mỗi chúng bạn thường xuyên trì tụng Chú Đại Bi mà tâm vẫn còn tức giận những chuyện nhỏ nhặt, ít kỷ, vô cảm…không làm việc thiện, không năng nổ trong Phật sự thì bạn đã tụng Chú Đại Bi sai phương pháp hoặc chưa tiến bộ trong tu tập. Bồ tát, Người luôn muốn mang những điều tốt đẹp đến với tất cả chúng sinh trong cõi số video trì tụng Chú Đại Bi rất hay và truyền cảmNhạc Chú Đại Bi Tiếng Phạn do nữ tu Ani Choying Drolma thể hiện Nữ tu sĩ Phật giáo Tây Tạng người NepalNhạc thiền Tây Tạng Chú Đại Bi giúp tĩnh tâm và giải tỏa áp lực trong cuộc sốngThầy Thích Trí Thoát Tụng Chú Đại Bi 21 biếnHoa Sen Phật – Tham khảo Thư Viện Hoa Sen,Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni Xuất Tượng. 1st Ed. NXB Tôn Giáo. Hà Nội
Tụng là đọc, tụng. Trì là hành trì. Kinh là lời Phật dạy được khẩu truyền, sau lưu lại thành văn bản lưu ý tam sao thất bổn. TỤNG KINH là đọc, tụng Kinh văn nhằm để hiểu thấu đáo lời Phật dạy trao truyền qua đó. Sau khi dùng Chánh kiến tư duy tận tường thấu đáo, hành giả ứng dụng – hành trì lời Phật dạy trong đời sống thường nhật, gọi là TRÌ KINH. Tụng Kinh là VĂN. Tư duy thấu đáo, hiểu rõ ngọn nguồn ý Kinh là TƯ. Trì Kinh là TU. Đó chính là VĂN – TƯ – TU mà Đức Phật đã từng dạy. Nếu tụng Kinh mà không dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy thì chỉ là đọc tụng suông, tức VĂN, không được ích lợi gì! Một đứa trẻ biết đọc cũng có thể tụng Kinh điển làu làu không thua kém! Rõ ràng lợi ích đã không có nhưng cớ sao hiện nay đa phần Phật tử lại lầm rằng tụng Kinh càng nhiều, phước càng lớn? Đáng buồn hơn khi nhiều người nghĩ rằng ai tụng hay, nhớ nhiều Kinh văn thì người đó tu giỏi, rồi tự đắc khoe khoang hay thầm cười mãn nguyện mà không hề biết rằng mình đang lạc lối chớ nào có tu hành, Đạo còn dịu vợi xa. Nếu tụng Kinh VĂN mà dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy, chiêm nghiệm nghĩa lý ẩn tàng rốt ráo thì đó là TƯ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây tức rơi vào thông bệnh HỌC PHẬT như đã từng nhắc nhở. Nghịch lý người tu chạy vạy theo hết bằng cấp Phật học Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ rồi đến bằng cấp học thuật thế gian để khẳng định mình trong đội ngũ Tăng đoàn và Phật tử, để được vinh danh là Học giả Phật giáo, Từ điển Phật học “sống”, thậm chí phạm Thượng cho là “A-Nan thời hiện đại” đã biến Đạo Phật giác ngộ giải thoát thành môn học thuật thế gian, đường lối tu chơn Giới – Định – Huệ Tu Phật tự ngàn xưa nay lầm lạc thành sở tri chướng Học Phật cho chấp Ngã – chấp Pháp thêm chất ngất, Pháp vị giải thoát của Như Lai chỉ còn là khẩu thuyết theo ý mê tâm vọng phàm thường mà diễn giải sai lạc chớ nào phải tâm hành kiến ngộ Giác Tánh mà phổ truyền Diệu Pháp. Than ôi! Điển tích “Niêm hoa thị chúng” mà Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã tâm ấn mật truyền phó Pháp cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp kế thừa chính là Diệu Pháp về ĐƯỜNG LỐI TU PHẬT GIỚI – ĐỊNH – HUỆ mà Ngài đã trao truyền cho chúng sanh hậu thế y Giáo phụng hành, người tu thời nay sao chẳng liễu ngộ Phật ý mà Mê sự lao xao theo sự tướng huyễn bào? Bao đời chư Tổ “dĩ tâm ấn tâm” mà hoằng truyền mạng mạch Phật Pháp tại thế gian chớ nào có ai a dua theo bằng cấp, học vị, danh lợi… tầm thường lắm mùi tục lụy như sạn thốn mắt? Chớ hỏi vì sao hiện nay, Thiện-tri-thức thật sự đúng nghĩa nào có mấy ai! Do đó, bất kỳ ai, kể cả tu sĩ, nếu chỉ VĂN – TƯ mà không TU thì nặng trược chướng ngã HỌC PHẬT, không phải TU PHẬT nên đó không phải là người tu hành chơn chánh. Phước hay chướng nếu miệng thuyết mà tâm chẳng hành chơn chánh tương ưng? Nhân – Quả theo đó ra sao, tin rằng Đại chúng đã rõ! Nếu tụng Kinh VĂN, sau đó dùng Trí huệ – Chánh kiến để tư duy, chiêm nghiệm tận tường thấu đáo ý Kinh TƯ rồi lãnh thọ, tinh tấn hành trì trong đời sống thường nhật, trau Tâm dưỡng Tánh, nhiêu ích chúng sanh thì đó là TU, lợi lạc vô cùng tùy theo căn trí và tâm lượng của mỗi người. Hãy nhớ Phật đạo do tâm hành mà giác nên sự hành trì tu dưỡng càng cao, công phu thiền định càng thâm thì nghiệp chướng càng chóng tiêu trừ, trí huệ càng sáng, đức hạnh càng sâu, đến khi Chơn tâm Giác tánh hiện tiền kiến Tánh thì diệu dụng hóa độ chúng sanh trong khôn cùng cảnh giới khắp cõi 10 phương như Chơn nguyện là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. * TÓM LẠI TỤNG KINH không lợi lạc gì! Dẫu có thường xuyên, đều đặn tụng Kinh mỗi ngày 4 thời trước Phật đài đi nữa thì cũng phí công vô ích mà thôi! Như Ngũ giới hay Thập giới của phái cư sĩ tại gia có lẽ ai cũng biết, tuy nhiên nếu không thọ trì thì cái biết đó có ích lợi cho đời sống của mình không? Hay tụng Kinh Vu Lan nói về lòng yêu thương bao la vô điều kiện, công ơn sanh thành dưỡng dục và đức hy sinh cao cả của Cha Mẹ dành cho con cái, ta có nghĩ đến thực tế mình đã vuông tròn Hiếu đạo hay chưa? Nghĩ đến rồi, ta có chuyển thành hành động thiết thực ân cần quan tâm, chăm sóc, hiếu để với mẹ cha bất luận tháng ngày không hay chỉ là “hiếu trong tư tưởng” rồi thôi? Ta có nỗ lực tu hành để hồi hướng cho song thân, dẫu Người còn hay đã khuất, nói riêng cũng như tất cả Pháp giới chúng sanh nói chung, đền đáp Tứ ân trong muôn một hay chưa?… Hãy tự soi xét lại mình mà tỉnh ngộ và tinh tấn hành trì lời Phật dạy! TRÌ KINH thì muôn phần lợi ích, sai khác tùy tâm lượng thọ trì của mỗi người! Rốt ráo hơn, TRÌ TÂM tức trưởng dưỡng hạnh Từ – Bi – Hỷ – Xả, tịnh nhiếp 6 căn trụ tâm thiền miên mật ba thời chẳng mỏi. Nếu có thể công phu đến NHIẾP TÂM THÀNH GIỚI thì ĐỊNH – HUỆ khai, kiến ngộ Giác Tánh, liễu thoát tử sanh! CHƠN KINH, DIỆU PHÁP được lưu xuất từ Trí Huệ Vô Sư, Chơn tâm Giác tánh của Bậc kiến Tánh nên luôn khế lý hiệp chơn, không bị Tà mị hư vọng tam sao thất bổn. Và chỉ có Bậc kiến Tánh mới minh định liễu trạch rốt ráo Diệu Pháp Phật truyền giữa thời mạt tâm loạn Pháp hiện nay. Ai thống thiết với sự sanh tử vô thường thoáng không hẹn trước, ai xót xa thấu cảm với nỗi khổ của tha nhân và muôn vạn chúng sanh như thể mình đồng cảnh ngộ mà nguyện Từ Bi cứu độ tất cả, tiếp gót Như Lai thì chắc chắn người đó sẽ không màng sanh tử mà tự giác nhẫn lực tu hành miên mật không mệt mỏi. Ngược lại, a dua vui say thói tục dưới hình tướng Tăng sĩ và danh nghĩa Phật Pháp trên sự cúng dường của đàn na tín thí và niềm tin Tam Bảo của chúng sanh thì chắc chắn Phật chủng không còn, huệ mạng dứt lìa, khổ đọa muôn kiếp. Mong tất cả tỉnh tâm TU PHẬT! Diệu Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật __ Diệu A Di Đà Phật __ Cổ Thiên
Khái niệm – xuất xứ- công năng – cách hành trì ___________________ THẦN CHÚ LÀ GÌ? Thần chú, còn gọi là chân ngôn, hay Đà La Ni hoặc Đà Ra Ni hiểu một cách nôm na, đó là những những mật mã bí ẩn hàm chứa chân lý và năng lượng tinh hoa của Vũ trụ, được các đức Phật và các vị Bồ Tát dùng trí tuệ của các ngài dồn nén lại trong những âm thanh cô đọng, từ ngữ cô đọng, tạo ra những câu thần chú hoặc những bài thần chú. Vì được dồn nén, cô đọng lại, nghĩa lý trong mỗi câu từ của thần chú là trùng trùng điệp điệp, sâu xa thăm thẳm không thể dùng tư duy của phàm phu mà hiểu được, chỉ có trí tuệ của các đức Phật, các vị đại Bồ Tát mới hiểu đầy đủ và đúng nghĩa của thần chú. Vì lẽ đó, thần chú không có dịch nghĩa, người trì tụng chỉ cần đọc với niềm tin mà không cần hiểu nghĩa, là đã có thể phát huy công năng của thần chú. Điều này khác với pháp môn đọc tụng kinh điển, cần phải hiểu rõ nghĩa mới có thể thực hành. Đọc với niềm tin mà chẳng hiểu nghĩa, việc này giống như khi chúng ta bị bệnh, chúng ta ra gặp dược sĩ, mua thuốc, uống vào là có thể khỏi bệnh. Các chuyên gia, giáo sư, tiến sĩ, dược sĩ… với trình độ chuyên môn cao thâm về y học, đem hiểu biết của mình điều chế các dược liệu với tỉ lệ chính xác, cùng với quy trình điều chế phức tạp để tạo ra các viên thuốc. Bệnh nhân muốn hết bệnh, chỉ cần uống thuốc với liều dùng phù hợp, thì sẽ khỏi bệnh dù chẳng hiểu các viên thuốc ấy thành phần là gì, được điều chế như thế nào. Không phải vì các giáo sư tiến sĩ của ngành y không muốn cho bệnh nhân hiểu rõ thành phần và cách điều chế của thuốc trước khi uống. Mà là vì việc đó quá khó khăn với trình độ của bệnh nhân. Cần mất rất nhiều năm, thậm chí là nhiều chục năm nỗ lực học tập nghiên cứu mới đủ trình độ để hiểu rõ thành phần cấu tạo, cách thức điều chế, nguyên lý hoạt động của một viên thuốc, nếu phải đợi lâu như thế để hiểu rõ, rồi mới uống thuốc, vậy thì bệnh nhân đã chết cả hết rồi. Vì thế, nên bệnh nhân chỉ còn một cách tin tưởng vào bác sĩ, vào hãng dược, uống thuốc theo chỉ dẫn mà không cần hiểu gì, là vẫn có thể khỏi bệnh. Việc này lại cũng giống như dùng chìa khóa để mở hòm kho báu đang khóa kín. Người được trao cho chiếc chìa khóa, không cần phải biết bên trong ổ khóa cấu tạo như thế nào, các trục bi, rãnh khớp sắp xếp như thế nào, chỉ cần đút chìa vào ổ khóa, vặn một cái, kho báu mở ra là có thể đem vàng bạc, châu báu đi tiêu xài. Cũng như vậy, những người có duyên, quyết định chọn pháp môn trì tụng thần chú để tu tập, thì chỉ cần tin tưởng vào trí tuệ và năng lực của các đức Phật và Bồ Tát, đã tổng trì ra các thần chú, y theo đó đọc tụng thì sẽ được kết quả vi diệu. Nếu không tin, vậy tốt nhất chúng ta nên chọn một pháp môn khác, Phật Pháp có rất nhiều pháp môn khác nhau cho chúng ta lựa chọn, không hợp môn này ta có thể chọn một khác, điều đó cũng không sao cả. Cũng phải nói thêm, thần chú không phải chỉ duy nhất đạo Phật mới có, mà các tôn giáo khác, các tín ngưỡng dân gian cũng có thần chú, nổi bật có thể kể ra như các thần chú của Lão giáo mà các đạo sĩ thường dùng để trừ ma, hay như các thần chú của thầy bùa, thầy Pháp trong dân gian. Điều khác biệt của thần chú trong Phật giáo, là luôn đem tới những điều tốt lành cho người trì tụng, không sợ phản ứng phụ, và luôn chứa đựng hạt giống Bồ Đề, chứa đựng những chủng tử của Phật, khiến người trì tụng luôn luôn tăng trưởng duyên lành, cho đến một tương lai xa xăm nào đó có thể thành Phật. – Vậy các thần chú của đạo Phật hiện nay được lưu truyền như thế nào? Khởi thuỷ, vào thời Đức Phật, hoặc chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc các đại Bồ Tát sẽ tuyên thuyết ra các thần chú. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, ngài A Nan đã kết tập các thần chú lại trong những kinh điển, không chỉ chứa câu thần chú, mà còn miêu tả rõ hoàn cảnh mà Đức Phật hoặc các vị Bồ Tát thuyết ra thần chú, cùng với công năng, cách hành trì… những thần chú được công khai truyền dạy đó, gọi là thần chú phổ thông, ai có duyên muốn đọc tụng cứ đọc. Ví dụ như chú Đại Bi do Quán Thế Âm Bồ Tát thuyết trong kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, chú Lăng Nghiêm được đức Phật Thích Ca thuyết trong kinh Lăng Nghiêm, chú Bảo Khiếp Ấn được Phật Thích Ca thuyết trong kinh Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà-la-ni. Chú Vãng Sinh do Phổ Hiền Bồ Tát thuyết trong kinh Niệm Phật Ba La Mật… cùng với hàng ngàn thần chú được lưu truyền công khai trong rất nhiều kinh điển khác. Nếu muốn biết rõ chúng ta hãy dành nhiều thời gian nghiên cứu trong các tạng kinh của Đức Phật để lại, không nghiên cứu mà biết rõ hết được, nó là chuyện hái sao trên trời. Tuy nhiên, có rất nhiều thần chú mang đặc thù riêng, không phải ai cũng được phép đọc tụng, Đức Phật và các vị Bồ Tát chỉ truyền thụ riêng cho những người đủ căn duyên, đủ trình độ, đủ đức hạnh, và lưu truyền bí mật từ thế hệ này sang thế hệ khác, gọi là mật chú. Vì là bí mật, nên chúng ta cũng không cần tìm hiểu sâu làm gì, hàng ngàn thần chú phổ thông đã là quá đủ để mọi người hành trì theo. CÔNG ĐỨC, LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI ĐỌC TỤNG THẦN CHÚ Mỗi một thần chú sẽ chữa đựng những công năng riêng, đăc thù riêng, xong thông thường sẽ có chung các đặc tính sau 1. Tiêu trừ nghiệp chướng Nhờ đó người đọc có thể thoát được các hoạn nạn, tai ương, bệnh tật, đau khổ… 2. Tăng trưởng phước lành Nhờ vậy người đọc có thể gặp được nhiều may mắn, tăng thêm trí tuệ, đức hạnh, gặt hái nhiều điều tốt lành… 3. Tạo ra công năng đặc thù của thần chú Ví dụ như chú Lăng Nghiêm có công năng trừ tà, phá ma chướng cực mạnh, chú Vãng sinh giúp người đọc tiêu nghiệp và sớm được vãng sinh về Tịnh Độ. Chú Biến Thực có công năng biến phẩm vật ra thật nhiều, chú Đại Bi là vạn năng, chữa bệnh cũng được, tăng trưởng trí tuệ, thần thông cũng được, mau chóng đắc đạo cũng được. Muốn biết rõ công năng của từng thần chú như thế nào, chỉ có cách là đọc kỹ trong kinh điển thuyết ra thần chú đó. 4. Chiêu cảm sự gia hộ của vị Phật, vị Bồ Tát thuyết ra thần chú đó. Đây là một điều vi diệu mà không phải pháp môn nào cũng có. Hầu hết các pháp môn trong đạo Phật, người tu phải tự dựa vào sức mình, gọi là tự lực. Nỗ lực hành trì bao nhiêu, thì được hưởng thành tựu bấy nhiêu. Riêng có 2 pháp môn, là trì tụng thần chú, và niệm danh hiệu chư Phật – Bồ Tát, sẽ nhận được thêm tha lực. Tha lực là như thế nào ? Khi trì tụng thần chú nào đó, hay niệm danh hiệu vị Phật – Bồ Tát nào đó, ngoài những công đức do nỗ lực tụng niệm mà có được, người tu còn nhận được sự gia hộ đặc biệt của vị Phật hoặc Bồ Tát – vị bổn tôn đã thuyết ra thần chú đó, cộng thêm rất nhiều thiện thần, hộ pháp trợ giúp cho sớm thành tựu, gọi là tha lực. Vừa có công đức do nỗ lực của bản thân mình, vừa nhận thêm tha lực của chư Phật – Bồ Tát, bởi thế nên những người tu theo hai pháp môn này, thường nhanh gặp được những linh ứng vi diệu. 5. Tăng trưởng Bồ Đề Tâm Hiểu một cách đơn giản, Bồ Đề Tâm là hạt giống ban đầu để có thể trở thành Phật. Một khi đã gieo trồng, hạt giống này vĩnh viễn không bị hư hoại, mà chậm rãi nảy mầm, lớn lên dần dần. Trải qua vô số kiếp, dù có đầu thai luân chuyển nhiều kiếp không còn nhớ gì nữa, dù có được làm người, hay phải phải làm súc sinh, ngạ quỷ, phải vào địa ngục, Bồ Đề Tâm cũng không mất đi, mà sẽ âm thầm dẫn dắt ta hướng về cái thiện, hướng về Phật Pháp để tu hành, tích lũy công đức lớn dần cho đến khi thành Phật mới thôi. 4 đặc tính đầu tiêu nghiệp, tăng phước, công năng đặc thù, gia hộ là hiện tại có thể thấy được, nhiều hay ít tùy thuộc mỗi người, còn đặc tính thứ 5 gieo chủng tử Bồ Đề phải vô lượng kiếp sau mới thấy. 4 đặc tính đầu cần phải đáp ứng khá nhiều yêu cầu khi hành trì mới đạt được, phạm phải những điều cấm kỵ sẽ mất đi cụ thể sẽ nói rõ ở bài sau còn đặc tính thứ 5, hễ có đọc là chắc chắn đã gieo được giống Bồ Đề Tâm, chẳng bao giờ mất. Với người trí tuệ có hạn, thích những thành quả đến ngay, thì sẽ coi 4 đặc tính đầu là quan trọng hơn đặc tính thứ 5. Nhưng với người có trí tuệ nhìn xa, xa đến vô lượng kiếp, thấu hiểu được sự lên xuống, được mất vô thường của mọi thứ, sẽ hiểu ra đặc tính thứ 5 – gieo chủng tử Bồ Đề để tương lai có thể thành Phật mới thực sự là điều trọng đại. ________________ HÀNH TRÌ CỤ THỂ TRÌ CHÚ LÀ LÀM SAO ? Đầu tiên bạn cần chọn cho mình một thần chú nào đó để hành trì. Mỗi người sẽ phù hợp với một thần chú khác nhau chứ không có bất kỳ quy định mang tính áp đặt nào. Bạn nên đọc qua nhiều kinh điển, tìm hiểu về tính chất, lợi ích của nhiều thần chú khác nhau. Sau đó thử đọc tụng mỗi thần chú một thời gian, rồi thông qua cảm quan của chính mình, chọn lấy một, hoặc nhiều thần chú mà bạn cảm thấy phù hợp nhất để đọc tụng hàng ngày. Cách thức trì tụng Đơn giản là bạn cứ đọc thôi. Có thể có một vài cách khác như biên chép, xong phổ biến nhất thì vẫn là đọc tụng. Một lần đọc hết từ đầu đến cuối một thần chú thì gọi là một biến. MC -Dạ xin cho hỏi mỗi lần trì chú mình phải đọc bao nhiêu biến ạ ? -Một buổi có thể đọc được bao nhiêu biến tùy tâm, càng nhiều thì càng tốt, càng nhiều công đức, không có luật nào cấm bạn đọc nhiều quá. Và cũng không ai phạt bạn nếu bạn nghỉ không trì chú cả. Chỉ là công đức sẽ tăng hoặc giảm, lợi ích bạn nhận được nhiều hay ít mà thôi. Vậy nên nếu bạn hỏi tôi phải trì bao nhiêu biến, tôi sẽ hỏi ngược lại bạn rằng Bạn muốn được bao nhiêu công đức ?’ Do cần duy trì đọc đi đọc lại như thế, nên việc đọc thần chú mỗi ngày gọi là trì chú. Ban đầu chưa thuộc thì cứ nhìn giấy đọc, khi thuộc rồi thì thôi. Bạn cứ đọc bình thường, không cần ngân nga theo giai điệu nào cả, miễn đọc rõ ràng là được. Tốc độ đọc bạn tự điều chỉnh nhanh chậm sao cho phù hợp với mình. Khi đọc thì tâm chú ý lắng nghe âm thanh thần chú của mình đang đọc, đó là cách dụng tâm căn bản nhất. Niệm Phật và tụng kinh cũng có cách dụng tâm giống như vậy, mình đang niệm gì, tụng gì, tâm biết rõ như vậy, không nghĩ ngợi chuyện khác. Xong thực tế không có đơn giản, nếu tâm vọng tưởng bay bổng nhiều quá, miệng đọc mà đầu toàn nghĩ chuyện khác, thì đến khi nào sực nhớ ra, bạn hãy kéo cái chú ý trở lại, tập trung nghe âm thanh thần chú. Việc này không có dễ, nếu cố gắng rồi mà mãi bạn vẫn không sao tập trung được, bạn cũng đừng có nản. Cho dù bạn mất tập trung, thì có đọc vẫn cứ luôn có công đức, không nhiều thì ít, luôn tốt hơn là không. Đừng có bỏ tu chỉ vì không tập trung được. Về tư thế, tốt nhất thì bạn nên quỳ, chắp tay mà đọc chú. Nhưng đừng máy móc, các tư thế khác như ngồi, đi, đứng cũng vẫn được. Với người tu hành lâu sẽ được học về cách kiết ấn tay, xong với người mới bắt đầu cứ chắp tay là được, đừng đặt nặng đến việc bắt ấn như thế nào. Tu tập nhiều năm, đủ duyên tự nhiên sẽ có người chỉ, không đủ duyên mà cứ cố tình tìm hiểu về kiết ấn, đó mới là nguy hại. Yêu cầu căn bản Mức độ đầu tiên của người trì chú, chỉ có một yêu cầu căn bản, đây là mức tối thiểu bạn phải tuân thủ khi đọc thần chú CHỈ ĐỌC THẦN CHÚ THÀNH TIẾNG KHI ĐẢM BẢO TRANG PHỤC CHỈNH TỀ, TƯ THẾ NGAY NGẮN, KHÔNG CÓ NẰM. CÒN LẠI NHỮNG LÚC TRANG PHỤC KHÔNG CHỈNH TỀ, như nam cởi trần quần đùi, nữ váy ngắn, áo hai dây, sát nách, hay khỏa thân… hay ở những nơi bất tịnh như nhà vệ sinh, làm những việc tế nhị không tiện nói ra, thì chỉ trì chú thầm trong tâm thôi. Khi nam nữ ân ái phải dừng hẳn không tụng niệm. Hãy cố gắng hiểu rõ yêu cầu này, nếu vi phạm sẽ thành tội bất kính với thần chú, các vị Hộ Pháp sẽ có biện pháp trừng phạt. Ngược lại, nếu không rõ yêu cầu cơ bản này, sẽ rơi vào bệnh máy móc, hơi chút lại sợ thế này được không, thế kia được không, đi hỏi hết người này đến người kia, tốn công mà cũng chẳng bao giờ trả lời hết được cho mọi trường hợp. Để giúp bạn tránh rơi vào bệnh máy móc, cũng như để hình dung mức độ nặng nhẹ khác nhau của từng yếu tố liên quan đến việc trì chú, Quang Tử sẽ tạm đặt ra một số quy ước với tỉ lệ % trong video này, để bạn dễ hình dung. Lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Giả sử có một người bắt đầu thực hành trì thần chú, ngoài việc giữ được YÊU CẦU CĂN BẢN nói trên, anh ta không có thêm bất cứ gì khác. Cụ thể hơn, anh ta đi ngoài đường, quần áo chỉnh tề, vừa đi vừa lầm rầm đọc một câu thần chú mới học trên mạng. Ngoài ra, anh ta chưa Quy Y nên cũng không biết giữ giới là như thế nào. Đi ngoài đường nên không có bàn thờ gì cả. Anh ta ăn mặn, cũng chẳng kiêng khem gì. Vừa đọc thần chú, đầu anh ta lại vừa phân tâm nghĩ đến việc sếp mới giao ở công ty, chẳng tập trung gì cả. Như vậy thì anh ta có được công đức gì chăng ? Chắc chắn là có, hễ cứ giữ đúng yêu cầu căn bản, thì có đọc thần chú là phải có công đức, không nhiều thì ít. So với một người khác, vì dập khuôn máy móc, cho rằng muốn trì chú là phải quỳ trước ban thờ Phật, phải có chuông có mõ, phải thế này thế kia, rất nhiều… Khi không đủ các tiêu chuẩn đó thì nhất định không trì chú. Xong không đọc thì cũng chẳng có tí công đức nào, là thua đứt so với người có đọc trên kia, đó là cái dở của tính máy móc, dập khuôn. Chúng ta sẽ tạm quy ước, lượng công đức có được khi một người đọc hết một bài thần chú, ở mức thấp nhất, chỉ vừa đủ đảm bảo YÊU CẦU CĂN BẢN đã nói ở trên thôi, không có thêm yếu tố gì khác, ở đây ta quy ước coi đó là 100%. MC -Vậy có cách nào để anh ta tăng thêm công đức của mình lên thành 200%, 300% …không ạ ? • Tin vui là có, và có rất nhiều yếu tố từ dễ đến khó để anh ta tăng công đức lên. Cách đầu tiên, rõ ràng và dễ hiểu nhất, là đọc nhiều lần. Đọc một biến thần chú thì có công đức của một biến. Đọc 2 biến thì công đức tăng gấp đôi, 3 biến tăng gấp 3, 21 biến tăng gấp 21 lần… và không có giới hạn nào cả ngoài giới hạn của sự kiên trì trong chính bạn. • Tiếp theo, nếu anh ta thêm được một yếu tố bàn thờ trang nghiêm. Nghĩa là hoặc anh ta đến chùa ở trước tượng Phật, hoặc về nhà nơi có sẵn bàn thờ Phật mà trì chú, thì mỗi biến anh ta sẽ tăng thêm được khoảng 10% công đức so với mức căn bản. Như vậy, mức căn bản ban nãy ta quy ước là 100% , giờ + thêm 10%, là = 110%. • Tiếp nữa, nếu mỗi tháng anh ta ăn chay được 10 ngày vào những ngày Thập Trai, thì tháng đó, mỗi biến thần chú anh ta đọc tụng, sẽ tăng thêm khoảng 10%. Vậy, mức căn bản 100% + 10% do đọc trước bàn thờ trang nghiêm + 10% do ăn chay tháng 10 ngày = tổng cộng 120 % trên mỗi biến. • Tiếp tục, nếu trong khi trì chú, anh ta cảm thấy rất hân hoan, vui thích, gọi là hoan hỉ, vậy thì công đức của anh ta sẽ tăng thêm 10% mỗi biến. Cộng lại, 100% của mức căn bản + 10% ăn chay tháng 10 ngày + 10% bàn thờ trang nghiêm + 10% tâm hoan hỉ = 130 % mỗi biến. Ngoài 3 yếu tố bàn thờ, ăn chay Thập Trai, hoan hỉ kể trên, còn có hàng chục yếu tố khác thậm chí còn tăng công đức nhiều hơn đến 30%- 50% trên mỗi biến, chúng ta sẽ quy ước gọi là yếu tố tăng công đức. MC – Vậy anh ta phải tuần tự đáp ứng hết các yếu tố đó phải không ạ ? -Không ! Anh ta không nhất thiết phải đáp ứng hết, không có máy móc như vậy, mà là tùy hoàn cảnh mỗi người, thêm được yếu tố nào thì hưởng thêm công đức của yếu tố đó, còn không làm được thì thôi. Cái cần phải lo là cái này. Ngoài các Yếu tố tăng công đức, chúng ta cũng có một loạt Yếu tố giảm công đức, nếu phạm phải, mỗi biến công đức sẽ bị giảm đi. Ví dụ, hàng ngày anh ta thường ăn tỏi, hành, hẹ, thì mỗi biến, anh ta sẽ bị giảm đi 90% công đức. Vậy 100% công đức mức căn bản – 90% do ăn hành tỏi = thì còn được 10% công đức. MC – Chà, yếu tố hành tỏi này cũng đáng ngại thật, làm tiêu hao đến 90% công đức có được, thảo nào trì chú mãi không thấy chuyển biến gì. Vậy phải chăng, nếu phạm nhiều điều quá thì càng đọc công đức của ta sẽ bị âm đi không ạ ? – Rất may là không. Ngoài hành tỏi, hay đúng hơn là Ngũ vị tân ra, thì ta còn 3 loại yếu tố giảm công đức nữa. Tuy nhiên, bạn đừng lo là phạm phải nhiều yếu tố giảm trừ thì sẽ bị âm, chuyển thành có tội, có quả báo được. Không, cùng lắm thì bạn chỉ được hưởng rất ít công đức mà thôi, chứ không bị âm, đang tạo phước mà chuyển thành quả báo sao được. Như ở phần trước Quang Tử đã nói. Đó là công đức của việc trì chú sẽ có 5 loại. Nếu phạm phải các yếu tố giảm công đức, thì cũng chỉ làm giảm bớt, hoặc mất đi 4 lợi ích đầu. Con lợi ích thứ 5 tăng Bồ Đề tâm luôn luôn vẫn có phần. Vậy nên bất luận như thế nào, bạn cũng hãy cố gắng duy trì. MC – Vậy xin cho biết có tất cả bao nhiêu yếu tố tăng công đức, bao nhiêu yếu tố giảm công đức, và xin phân tích làm rõ ạ. Về các Yếu tố tăng công đức có 18 yếu tố. Thấp thì tăng được 5%, nhiều thì tăng đến 50%. – Mức 5%, có yếu tố Trang phục chỉnh tề – Mức 10%, có 3 yếu tố + Hoan hỉ + Bàn thờ trang nghiêm + Ăn chay thập trai – Mức 20%, có 6 yếu tố + Căn cơ nhiều kiếp + Thần chú bổ trợ + Đọc to – rõ ràng + Chuyên nhất + Đọc chuẩn âm Phạn + Số lượng nhiều – Mức 30%, có 5 yếu tố + Giữ nghêm giới luật + Tập trung + Ăn chay trường + Từ bi – đức hạnh + Kiên trì – Mức 40%, có yếu tố Nghiệp nhẹ phước lớn – Mức 50%, có 2 yếu tố + Đức tin tuyệt đối + Tâm thành kính Lưu ý đây chỉ là dành cho người hành trì ở mức độ phổ thông, còn các bậc hành giả Mật Tông mật truyền sẽ còn nhiều yếu tố phức tạp khác như quán đảnh, kiết đàn, kiết ấn, nghi thức cúng dường . nhưng chỉ nội bộ mới biết, không có truyền ra ngoài, và ta cũng không cần tìm hiểu làm gì. 18 yếu tố sau đây là cũng đủ trở thành thách thức với hầu hết mọi người rồi. Về các Yếu tố giảm công đức, có 4 yếu tố, có thể giảm từ 10 -90% công đức. – Ăn ngũ vị tân giảm từ 10 -90% – Phạm các ác nghiệp giảm từ 10 -90% – Kinh chú thiếu chữ giảm từ 20 -70% – Nghi ngờ giảm từ 50 -99% Xin nhắc lại lưu ý, các tỉ lệ % này chỉ là tương đối, giúp bạn dễ hiểu, chứ không phải thực tế luôn chính xác tuyệt đối như vậy. Mỗi người hoàn cảnh, căn cơ khác nhau, sẽ có sự giao động tăng giảm % không thể luôn chính xác. Cụ thể từng yếu tố như thế nào, mời bạn xem trong video đăng kèm bài viết này nếu không thấy, bạn có thể tìm trên kênh Youtube Quang Tử với từ khóa Thần chú hướng dẫn cách hành trì’ để xem với phần phần phân tích của một vị Chú sư Mật Tông. ______________________ Phật Pháp vi diệu nhưng rộng lớn quá, khiến bạn không biết bắt đầu từ đâu ? Hoặc bạn đã tìm hiểu nhiều xong vẫn còn cảm thấy chưa nắm được những điểm mấu chốt để áp dụng là những điểm nào ? Chính vì vậy, Quang Tử đã tóm gọn lại những bài viết mang tính then chốt, chứa đựng những giáo lý mang tính ứng dụng thực tế cao, được nhiều người quan tâm trong thời đại này, mà bất cứ người nào cũng cần nắm rõ, làm hành trang căn bản, để ứng dụng hóa giải mọi khổ đau của cuộc đời. 21 bài viết và video trong fanpage Facebook này, 21 chủ đề khác nhau, tuy chẳng là gì so với biển học mênh mông của Đạo Phật, xong hi vọng sẽ giúp bạn thỏa mãn khao khát tìm hiểu, nắm vững yếu chỉ then chốt. Hãy bấm vào link bên dưới và lần lượt khám phá từng bải viết. 21 BÀI HỌC THEN CHỐT
Tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật là ba phương pháp tu hành đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời ba phương pháp Tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật có ý nghĩa gì?Phật tử cần phải học tụng Kinh, niệm Phật và trì Chú để lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt Kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh. Trì Chú là nắm giữ một cách chắc chắn lời bí mật của Chư Phật. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Phật giáo, người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật. Nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng Kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh điển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về phép lạy gồm Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần “Sự” là phần hình thức. Vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường đồ phải niệm đủ Tam thế Phật– Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng sinh.– Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc.– Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị miệng tụng Kinh, trì Chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Đấng Từ phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình Mục đích của việc niệm PhậtNiệm Phật để đưa đến sự nhất tâmLàm sao để ta áp dụng niệm Phật trong các vấn đề sinh hoạt hằng ngày. Khi ta đang làm một việc gì đó, không thể nào chúng ta vừa làm rồi miệng lại niệm Phật cùng một lúc được, có khi lại gây ảnh hưởng vậy, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta tập trung nhìn nhận rõ, đâu là đúng, đâu là sai, đâu là cái cần phải gạt lọc, đó là ta đã sống trong giây phút của tỉnh thức rồi, việc này đồng nghĩa với việc chúng ta niệm Phật để được giải thoátNiệm Phật là để được giải thoát, vậy từ giải thoát là gì? Chữ giải có nghĩa là mở, thoát là ra, nhưng đôi khi chúng ta không hiểu rõ rồi lại nhìn chữ giải thoát này ở một mức độ cao siêu xa vời. Chúng sinh luôn bị Tam độc Tham – Sân – Si chi phối trong lòng, do đó việc niệm Phật là làm sao thoát khỏi sự ràng buộc của ba yếu tố như trong cuộc sống, ta làm ra đồng tiền, có nhiều thì tiêu nhiều, có ít thì tiêu ít, tùy vào khả năng có được mà chúng ta sử dụng hợp lý và không bị đòng tiền lôi cuốn bản thân mình vào những con đường tội lỗi khác. Ta sẽ không bị dính mắc và lệ thuôc vào nó, thì lúc này chúng ta đã thoát khỏi sự ràng buộc của tham và làm chủ bản thân mình, như vậy mới thật sự niệm Phật giải thoát ngay ở trong hiện tại này mà không tìm một sự giải thoát ở đâu xa thoát nằm ngay ở trong tâm thanh tịnh của mỗi người. Tâm của ta có sự an lạc, giải thoát tâm hồn thì ngay đó ta sống với thế giới thanh tịnh của chư Phật. Chúng sinh ai cũng có Phật tính sáng suốt, nhưng bị vô minh che lấp, nên không nhận ra được tự tính sáng suốt của mình. Vì vậy, việc niệm Phật giúp ta trở về bản thể thanh tịnh của chính mình. Có nhiều người cũng nghĩ rằng, niệm Phật để được Đức Phật tiếp dẫn về một thế giới nào đó. Điều này vô tình lại làm chúng ta thiếu đi niềm tin vững chắc vào khả năng tu tập của chính kinh Đức Phật dạy, ví như chúng ta trồng một cây nằm ở hướng tây thì khi gió đến, nó sẽ ngã theo chiều của hướng tây. Cũng thế, nếu như hằng ngày ta luôn vun bồi và tạo nhiều công đức lành thì kết quả an lạc sẽ đến với ta và khi mất thân này chúng ta sẽ được tái sinh vào một cảnh giới an giống như người ăn cơm nếu ăn một bát thì no theo một bát, nếu ăn nhiều thì no nhiều, nhưng tự thân họ cũng có lương thực để an lòng. Do đó, tùy vào mức độ mà ta tu tập nhiều hay ít thì tự thân sẽ được sinh vào cảnh giới thích hợp với quá trình công phu tu tập của Phật để được vãng sinhVãng sinh là sự kết thúc của cuộc đời này để sinh qua một thế giới khác, hay nói nghĩa rộng hơn, đó là cách chuyển hướng thay đổi từ cách sống này sang một lối sống như trước giờ ta sống trong sự giận hờn, buồn phiền và không làm chủ được tâm hồn. Nhưng khi hiểu được sân là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ, lúc này chúng ta liền khắc phục sai lầm và thay đổi tích cực mạnh mẽ, đó là chúng ta đã chuyển đổi từ một cuộc sống sân hận thành một cuộc sống bao dung tha thứ, và đó cũng chính là vãng giống như một người ham hút thuốc nhưng khi phát hiện mình bị bệnh nên lập tức bỏ ngay sự ham muốn ấy, có nghĩa là người này đã thay đổi từ một thói xấu chuyển thành một đức tính tốt thì đó cũng gọi là vãng vậy, không cần phải chết mới được vãng sinh mà ngay trong đời sống hiện tại ta cũng đã được vãng sinh rồi. Vì vậy, vãng sinh là sự thay đổi từ những đức tính xấu ác của con người để trở về con đường thánh thiện, từ một người với thói quen đầy sự ích kỷ, nhỏ nhen trở thành một người có tấm lòng bao dung, độ lượng và cao hơn nữa đó là từ phàm phu bước lên một bậc của thánh giả tu tập, niệm Phật cần phải thực tập và áp dụng việc niệm Phật vào trong đời sống hằng ngày để chúng ta tìm được nguồn an lạc hiện thực và luôn luôn trong thế giới của Đức Phật, đoạn dứt những phiền não để trở về bản thể thanh tịnh vốn có của mình, và đó mới là mục đích cao cả của việc niệm thêm Niệm Phật là gì? Vì sao phải niệm Phật? Điều cần biết khi niệm PhậtTrích nguồn
trì tụng là gì